Ngày 1/7 - ngày BHYT Việt Nam năm nay, cũng đồng thời tròn 15 năm triển khai thực hiện Luật BHYT đầu tiên của Việt Nam. Với tỷ lệ người tham gia tăng, quyền lợi được mở rộng và số chi khám chữa bệnh BHYT tăng, BHYT đã trở thành nguồn tài chính chủ yếu cho chăm sóc sức khỏe nhân dân ở nước ta...
ThS Trần Thị Trang - Vụ trưởng Vụ BHYT, Bộ Y tế cho biết ngày 01/7/2009 Luật BHYT đầu tiên của Việt Nam chính thức có hiệu lực thi hành, đây là cơ sở pháp lý cao nhất đầu tiên để thể chế hóa quan điểm của Đảng và nhà nước ta về phát triển BHYT toàn dân nhằm từng bước đạt tới công bằng trong chăm sóc sức khỏe, thực hiện sự chia sẻ giữa người khỏe với người ốm, người giàu với người nghèo, người trong độ tuổi lao động với trẻ em, người già.
Trải qua 15 năm triển khai thực hiện, với sự vào cuộc và quyết tâm của cả hệ thống chính trị, hướng tới mục tiêu bao phủ BHYT toàn dân, chính sách BHYT của Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Tỷ lệ bao phủ BHYT, số lượt khám chữa bệnh BHYT gia tăng mạnh mẽ
Vụ trưởng Trần Thị Trang cho hay, năm 2009 là năm đầu tiên thực hiện Luật BHYT, tỷ lệ bao phủ BHYT là 58% dân số, tăng 11% so với năm 2008.
Năm 2015, năm thực hiện Luật BHYT sửa đổi, bổ sung, số người tham gia BHYT là 68,5 triệu người, đạt tỷ lệ bao phủ BHYT 74,9% dân số; năm 2019 số người tham gia BHYT là 85,7 triệu người, đạt tỷ lệ bao phủ đạt 89,1% dân số.
Tính đến 31/12/2023, số người tham gia BHYT là hơn 93,307 triệu người, đạt tỷ lệ bao phủ 93,35% dân số.
Số lượt người có thẻ BHYT đi khám chữa bệnh tăng nhanh qua từng năm. Năm 2010 có 102 triệu lượt (93,7 triệu lượt khám chữa bệnh ngoại trú và 8,3 triệu lượt điều trị năm nội trú).
Năm 2015, có 130,2 triệu lượt người khám chữa bệnh BHYT, trong đó số lượt khám chữa bệnh ngoại trú là 118,2 triệu lượt, số lượt khám chữa bệnh nội trú là 12 triệu lượt.
Năm 2019, số lượt khám chữa bệnh BHYT là 184 triệu lượt, trong đó, số lượt khám chữa bệnh BHYT ngoại trú là 166,9 triệu lượt, số lượt khám chữa bệnh BHYT nội trú là 17,1 triệu lượt đều tăng so với năm 2018.
Trong giai đoạn 2020 - 2022, do ảnh hưởng của dịch COVID-9, số lượt khám chữa bệnh BHYT giảm so với giai đoạn 2015 - 2019. Năm 2022 khi tình hình dịch bệnh COVID-19 đã ổn định hơn, số lượt khám chữa bệnh BHYT tăng lên 150,4 triệu lượt, tăng 24 triệu lượt so với năm 2021.
BHYT đã trở thành nguồn tài chính chủ yếu cho chăm sóc sức khỏe nhân dân
Bà Trần Thị Trang thông tin, cùng với sự gia tăng về tỷ lệ người tham gia BHYT, số thu, chi BHYT qua từng năm gia tăng nhanh chóng thể hiện BHYT đã trở thành nguồn tài chính chủ yếu cho chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Nếu như số thu quỹ BHYT năm 2010 đạt 25.540 tỷ đồng, thì đến 31/12/2015, tổng số tiền đóng từ người tham gia BHYT đã tăng lên là 59,7 nghìn tỷ đồng. Trong giai đoạn 2015 - 2019, số thu BHYT từ các đối tượng tăng qua các năm, tăng mạnh nhất vào năm 2017 (năm thực hiện Quyết định số 1167/QĐ-TTg điều chỉnh giao chỉ tiêu bao phủ BHYT tới từng tỉnh). Số thu BHYT hàng năm tăng do tăng tỷ lệ bao phủ BHYT và tăng mức đóng do tăng mức lương cơ sở.
Giai đoạn 2020 - 2022 là giai đoạn có nhiều khó khăn do chịu tác động của dịch COVID-19, số tiền đóng BHYT vẫn gia tăng nhưng ở mức độ hạn chế. Cụ thể, năm 2020, tổng số tiền đóng BHYT là 108,7 nghìn tỷ đồng, tăng 6,7 nghìn tỷ đồng so với năm 2019. Năm 2021, tổng số tiền đóng BHYT là 110,0 nghìn tỷ đồng, tăng 1,3 nghìn tỷ đồng so với năm 2020. Năm 2022, tổng số tiền đóng BHYT là 113,8 nghìn tỷ đồng, tăng 3,8 nghìn tỷ đồng so với năm 2021.
Năm 2010 số chi của quỹ BHYT là 19.666 tỷ đồng. Đến năm 2015, số chi khám chữa bệnh BHYT đã tăng lên là 47,9 nghìn tỷ đồng;
Số chi khám chữa bệnh BHYT năm 2018 là 96,5 nghìn tỷ đồng, năm 2019 là 104,8 nghìn tỷ đồng. Như vậy, chỉ sau 3 năm số chi khám chữa bệnh BHYT đã cao gấp hơn 2 lần so với số chi khám chữa bệnh BHYT của năm 2015.
Giai đoạn 2020 - 2021, do tác động của dịch COVID-19, số lượt khám chữa bệnh BHYT giảm mạnh, số chi khám chữa bệnh BHYT giảm mạnh so với năm 2019.
Năm 2020, số chi khám chữa bệnh BHYT là 101,7 nghìn tỷ đồng, giảm 3,1 nghìn tỷ (tương ứng giảm 3%) so với năm 2019, năm 2021 giảm 17,9 nghìn tỷ (tương ứng giảm 15%) so với năm 2019.
Đến năm 2022, cả nước bước vào giai đoạn "bình thường mới" sau khi tình hình dịch bệnh COVID-19 đã ổn định hơn, hoạt động khám chữa bệnh trở lại bình thường, số chi khám chữa bệnh BHYT của năm 2022 là 105,8 nghìn tỷ đồng, tăng gần 19 nghìn tỷ đồng (tương ứng tăng 22%) so với năm 2021 và đã cao hơn mức chi của năm 2019.
Quyền lợi của người tham gia BHYT được đảm bảo
Theo Vụ trưởng Trần Thị Trang, nhìn chung, phạm vi quyền lợi của người tham gia BHYT tương đối toàn diện, bao gồm: chi phí dịch vụ kỹ thuật khám chữa bệnh, thuốc, máu, dịch truyền, vật tư y tế, hóa chất khi người tham gia BHYT đi khám chữa bệnh, phục hồi chức năng, khám thai định kỳ, sinh con tại cơ sở khám chữa bệnh.
Ngoài ra quỹ BHYT còn chi trả chi phí vận chuyển người bệnh từ tuyến huyện lên tuyến tỉnh và tuyến trung ương đối với một số đối tượng ưu tiên như người thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng, trẻ em dưới 6 tuổi… trong trường hợp cấp cứu hoặc khi đang điều trị nội trú phải chuyển tuyến chuyên môn kỹ thuật;
Quỹ BHYT cũng trích một phần chi phí từ số thu BHYT cho các đơn vị trường học, cơ quan/tổ chức để phục vụ công tác khám chữa bệnh trong chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Hàng năm, bình quân quỹ BHYT chi trả từ 87% - 89% tổng chi phí khám chữa bệnh BHYT, người tham gia BHYT có trách nhiệm đồng chi trả từ 11% - 13%.
"Quyền lợi về khám chữa bệnh BHYT có xu hướng ngày càng được mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người tham gia BHYT, sự thay đổi về mô hình bệnh tật, sự phát triển của khoa học công nghệ trong lĩnh vực y tế, khả năng cân đối quỹ BHYT và khả năng chi trả của người tham gia, đồng thời hướng tới mục tiêu giảm chi tiền túi từ hộ gia đình cho chi tiêu y tế"- bà Trang nhấn mạnh.
Cũng theo bà Trần Thị Trang, danh mục thuốc (bao gồm cả thuốc tân dược và thuốc y học cổ truyền, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật y tế), vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật BHYT luôn được rà soát để cập nhật phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên môn và năng lực thực hiện dịch vụ kỹ thuật vừa để đảm bảo quyền lợi của người có thẻ khi đến cơ sở y tế, vừa là yêu cầu nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của cơ sở y tế.
(Báo Sức khỏe& đời sống)
Vận động được trên 300.000 đơn vị máu phục vụ người bệnh
Nhiệm kỳ 2019-2024 vừa qua, Hội Máu Hà Nội đã phối hợp tổ chức 2.315 điểm hiến máu và vận động được 310.130 đơn vị máu phục vụ người bệnh.
Ngày 23-6, tại Viện Huyết học - truyền máu trung ương diễn ra phiên chính thức của Đại hội Đại biểu Hội Thanh niên Vận động hiến máu Hà Nội (Hội Máu Hà Nội) lần thứ VII.
Với chủ đề “Đoàn kết phát triển - Đổi mới nâng tầm - Nhân ái sẻ chia - Tiến bộ vươn xa”, Đại hội là sự kiện quan trọng để đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác Hội Máu Hà Nội giai đoạn 2019-2024 và đề ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp giai đoạn 2024-2029.
Trong 5 năm qua, công tác hiến máu tình nguyện phát triển cả về chất lượng và số lượng, đảm bảo cho nhu cầu cấp cứu và điều trị người bệnh.
Nhiệm kỳ 2019-2024 vừa qua, Hội Máu Hà Nội đã phối hợp tổ chức 2.315 điểm hiến máu và vận động được 310.130 đơn vị máu phục vụ người bệnh. Hội đã tham gia 6 lần kêu gọi thiếu máu, tích cực mời gọi người nhóm máu O và A tham gia hiến máu, là đơn vị tiên phong đi đầu chung tay khắc phục tình trạng thiếu máu trong mọi thời điểm. Cán bộ, hội viên, tình nguyện viên sẵn sàng hiến máu khi được kêu gọi.
Cũng trong 5 năm qua, Hội Máu Hà Nội đã phối hợp với Viện Huyết học - truyền máu trung ương duy trì 27 sự kiện hiến máu lớn như: Lễ hội Xuân Hồng (tiếp nhận 45.320 đơn vị máu); Giọt hồng tri ân (tiếp nhận 18.177 đơn vị máu); Trái tim tình nguyện (tiếp nhận 15.683 đơn vị máu); Mùa hè nhân ái (tiếp nhận 10.183 đơn vị máu)…
Hội cũng phối hợp với các quận, huyện tổ chức các sự kiện, tiếp nhận được hơn 30.000 đơn vị máu, nhiều ngày tiếp nhận trên 500 đơn vị máu/đợt, như: Cầu Giấy, Thanh Xuân, Bắc Từ Liêm, Gia Lâm…
Ghi nhận vai trò của Hội Máu Hà Nội trong hoạt động hiến máu tình nguyện 30 năm qua, PGS.TS Nguyễn Hà Thanh, Viện trưởng Viện Huyết học - truyền máu trung ương cho biết, Hội Máu Hà Nội đã phối hợp với Viện Huyết học - truyền máu trung ương và các đơn vị, cơ quan, trường học, quận, huyện… để vận động, tuyên truyền và tổ chức tiếp nhận được hơn 750.000 đơn vị máu. Đặc biệt, Hội là đơn vị luôn đồng hành, sát cánh cùng Viện trong sứ mệnh đảm bảo nguồn máu an toàn giữa bối cảnh dịch bệnh Covid-19 bùng phát.
“Tôi đặc biệt ấn tượng với hình ảnh các tình nguyện viên không kể thời gian, thời tiết nắng, mưa, xa, gần… vẫn luôn nhiệt huyết, say mê tham gia tuyên truyền vận động hiến máu tình nguyện. Hoạt động mà các bạn tạo ra đã mang lại những giá trị lớn lao đối với các thành viên, đặc biệt là góp phần vào hình thành nhân cách tốt, lối sống tích cực đối với các bạn trẻ”, PGS.TS Nguyễn Hà Thanh bày tỏ.
Trước đó, tại phiên thứ nhất, Đại hội đã tiến hành hiệp thương chọn cử 29 ủy viên Ủy ban Hội Máu Hà Nội khóa VII, nhiệm kỳ 2024-2029; ông Trịnh Xuân Thủy tiếp tục là Chủ tịch Hội nhiệm kỳ 2024-2029.
(Báo Hà nội mới)
Đến viện 3 lần mới biết mắc vi khuẩn 'ăn thịt người'
Người đàn ông 60 tuổi sốt rét, đến 2 viện khám nhưng không tìm được căn nguyên, lần thứ 3 mới phát hiện mắc vi khuẩn Whitmore.
Ông Đ.V. N, 60 tuổi, ở Chí Linh - Hải Dương có tiền sử tiểu đường nặng. Trước khi vào viện 2 tuần, ông ho nhiều, sốt rét run (40 độ) kèm đau vùng cơ thắt lưng.
Ông đến 2 cơ sở y tế khám và điều trị nhưng không đỡ, không tìm được căn nguyên sốt. Ông tự đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương điều trị trong tình trạng đau cơ vùng thắt lưng và khớp vai phải tăng dần, kèm sốt cao không rõ nguyên nhân, mệt mỏi nhiều.
Các bác sĩ điều trị tích cực, chụp cộng hưởng từ khớp vai cho thấy ông bị viêm và áp xe. Kết quả cấy máu dương tính vi khuẩn Whitmore, còn gọi là Burkholderia pseudomallei - vi khuẩn "ăn thịt người".
Sau thời gian điều trị điều trị tích cực, các triệu chứng, biến chứng kèm theo của người bệnh có chiều hướng cải thiện rõ rệt, cắt sốt.
Bác sĩ Nguyễn Hồng Long, Phó trưởng khoa Nhiễm khuẩn tổng hợp, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, cho biết bệnh Whitmore có biểu hiện lâm sàng đa dạng, không điển hình dễ bị chẩn đoánh nhầm với các bệnh khác.
Bệnh có thể diễn biến cấp tính, nhiễm trùng máu nặng, nguy kịch, tử vong, hoặc có thể gặp nhiễm trùng mãn tính, nhiễm trùng ẩn, kéo dài nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Khi nuôi cấy bệnh phẩm để chẩn đoán, vi khuẩn mọc thường mọc chậm và tỷ lệ mọc cũng không cao, làm cho việc chẩn đoán căn nguyên càng thêm khó.
Bệnh Whitmore sẽ thường xuyên gặp trên những người có bệnh nền như tiểu đường, bệnh gan, thận, phổi mãn tính, suy giẩm miễn dịch… Bệnh biểu hiện lâm sàng rất đa dạng, khó chuẩn đoán và có thể tử vong do biến chứng viêm phổi nặng, nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm trùng.
Hiện chưa có vaccine phòng bệnh Whitmore, các biện pháp phòng bệnh chủ yếu là đảm bảo vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường.
Người dân sử dụng bảo hộ lao động khi làm việc có tiếp xúc với đất, bùn, nước bị nhiễm khuẩn hoặc trong môi trường không đảm bảo vệ sinh, vệ sinh diệt khuẩn vết rách da, trầy xước hoặc bỏng bị nhiễm bẩn và thực hiện ăn chín uống chín.
Khi có vết thương hở, vết loét hoặc vết bỏng người dân cần tránh tiếp xúc với đất hoặc nước có khả năng bị ô nhiễm. Nếu bắt buộc phải tiếp xúc chúng ta cần sử dụng băng chống thấm và cần được rửa sạch đảm bảo vệ sinh.
Đặc biệt đối với những người có bệnh tiểu đường, bệnh gan, thận, phổi mạn tính, suy giảm miễm dịch cần được chăm sóc, bảo vệ các vết thương để ngăn ngừa nhiễm khuẩn. Khi nghi ngờ nhiễm bệnh cần đến cơ sở y tế để được tư vấn, khám phát hiện và điều trị kịp thời.
(Báo VTC News)
Dịch sốt xuất huyết đang có chiều hướng diễn biến bất thường
Từ đầu năm 2024 đến nay, cả nước ghi nhận 22.000 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, trong đó có 3 trường hợp tử vong, theo thống kê từ Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế.
Theo nhận định của các chuyên gia, sốt xuất huyết không còn là bệnh phát triển theo chu kỳ mà năm nào cũng có số ca mắc cao do biến đổi khí hậu, môi trường và đặc điểm dân cư.
Theo Bộ Y tế, dịch bệnh sốt xuất huyết đang có chiều hướng diễn biến bất thường, tính chất bệnh phức tạp, các biến chứng nguy hiểm xuất hiện ngày càng nhiều.
Hiện nay, Việt Nam lưu hành cả 4 tuýp virus Dengue gây bệnh. Đáng chú ý, nếu như trong năm 2023 tuýp D2 chiếm 88% ca bệnh thì sang năm 2024 tuýp D2 chiếm 70%.
Mùa cao điểm của dịch sốt xuất huyết sẽ bắt đầu từ tháng 7 đến tháng 11, mỗi người dân cần hiểu rõ về bệnh này để có cách dự phòng, phòng chống bệnh hiệu quả.
Đối với công tác phòng ngừa, Bộ Y tế nhấn mạnh, phương pháp phòng bệnh bền vững là kiểm soát vật trung gian lây bệnh là muỗi vằn và dự phòng chủ động bằng vaccine.
(Báo hanoionline)